Đến một khu du lịch hay một điểm du lịch, du khách không chỉ mong được chiêm bái cảnh quan, công trình hiện hữu và hưởng những dịch vụ chất lượng cao, mà sẽ càng hấp dẫn hơn, khi họ được tìm hiểu, được thưởng thức những giá trị lịch sử, văn hoá và tâm linh của khu du lịch, điểm du lịch ấy.
Liên hệ điều này thì Khu Chợ Bờ nằm trong quy hoạch Du lịch cấp quốc gia Hồ Hoà Bình hiện nay thật là độc đáo, bởi nó dồi dào các yếu tố cả hiện hữu và trầm tích. Cái hiện hữu sơn thuỷ hữu tình của Hồ Hoà Bình được ví như "Vịnh Hạ Long trên núi" thì ai tới cũng thấy. Nhưng cái trầm tích thì lại vô cùng phong phú và độc đáo, độc đáo đến ngạc nhiên đối với du khách. Đó là nằm sâu hàng trăm mét dưới đáy hồ ăm ắp xanh kia đã từng là vùng dân cư đông đúc và sầm uất. Vùng dân cư ấy gắn với lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc ta và tạo nên nền văn hoá đầy bản sắc của một bộ phận người Việt nằm ở phía Tây Bắc Tổ quốc.
Khu vực Chợ Bờ trên hồ Hòa Bình hiện nay
Thiết nghĩ, mặt nước trong xanh, các thắng cảnh núi non hùng vĩ và nên thơ... đang chỉ là và mãi là phần nổi của hồ Hoà Bình, dù mỗi ngày thêm những tôn tạo sang trọng, hiện đại. Người viết bài này, từ lâu đã đau đáu với những gì đang nằm sâu dưới đáy hồ đầy, nhất là khu vực Chợ Bờ xưa và nay, bởi nó chính là một phần đặc biệt thú vị của du lịch vùng hồ Hoà Bình này, một “mỏ vàng” của du lịch hồ Hòa Bình.
Cần định vị khu vực Chợ Bờ:
Mốc thức nhất là Hang Rết (có người gọi là hang Dơi)
Khi nước chưa dâng, cửa hang trên vách đá dựng đứng lưng chừng núi đối diện với chợ Bờ chính là hang Rết (động Thác Bờ ngày nay). Đêm về ánh trăng, sao phản chiếu những mạch đá lấp lánh, ngoằn ngoèo trông như những con rết khổng lồ nên người ta gọi là hang Rết.
Mốc thứ hai là Suối Búng
Suối chảy từ xóm Mó Nẻ của đồng bào Dao Đeo Tiền xuống sông Đà, qua đường 6A có cầu gạch dầm gỗ bắc qua ngay đầu phố Bờ và cũng là chân dốc vào chợ Bờ và huyện lỵ. Từ bến Phà Bờ (phía Chợ Bờ) theo quốc lộ 6A đi men chân đồi Bờ khoảng 2km là đến cầu Búng, điểm đầu khu Chợ Bờ. Nay cầu Búng không còn, nhưng ngọn suối Búng hãy còn.
Mốc thứ ba là Suối Săng
Nếu tính từ phía Hoà Bình lên, qua phà Bờ, qua chợ Bờ thì đến xóm Săng (xóm Săng thuộc xã Vầy Nưa giáp ranh xã Hào Tráng). Từ xóm Săng có một con suối chảy ra sông Đà, qua quốc lộ 6A, trước cửa khu bệnh viện huyện Đà Bắc. Tại điểm này cũng có một cây cầu gạch nhỏ hơn cầu suối Búng. Cũng như cầu Búng, cầu suối Săng không còn, nhưng ngọn suối Săng hãy còn.
Như vậy, 3 điểm: Hang Rết (Động Bờ); ngọn Suối Búng và ngọn Suối Săng hiện nay đã định vị chính xác huyện lỵ Đà Bắc (Phố Bờ). Phố Bờ trước đây chia làm hai khu: Phố Thượng và Phố Hạ. Từ quốc lộ 6A có 3 đoạn đường đá cấp phối chạy ra mé sông Đà, bắt vào đường đá phía trong chạy song song với đường 6A chính là bên trong khu phố Bờ. Đền Bờ, chợ Bờ và Bài thơ khắc đá của vua Lê Lợi đều nằm ở phố Hạ. Phố Thượng có Cửa hàng Thương nghiệp; HTX Lò rèn (xưởng nông cụ), khu đồi tếch (cây gỗ tếch) và bến Thượng.
Đền hai bên Thác Bờ
Đền Bờ nằm ngay sau và sát chợ Bờ, cách quốc lộ 6A khoảng 100 - 120m. Đi xuyên chợ Bờ xuống mé sông Đà là qua cửa Đền Bờ. Đền xây gạch, lợp ngói, sân gạch, có xây tường thấp bao quanh. Khuôn viên rộng khoảng 100 mét vuông, cây xanh rợp bóng. Mặt Đền hướng ra sông Đà, ngay chân thác Bờ, đối diện với hang Rết (có người gọi hang Dơi). Chân thác Bờ có bến đò ngang sang bên kia sông là dốc Chủa xã Ngòi Hoa. Trước đây xã Ngòi Hoa cũng thuộc huyện Đà Bắc, nay thuộc huyện Tân Lạc.
Đền Bờ nằm ở điểm "trên bến, dưới thuyền", cạnh chợ nên rất thuận tiện cho bà con vào thắp hương, dâng lễ cầu an. Những năm cuối thế kỷ 20 (khoảng 1976 - 1982), trước đổi mới, chính sách tôn giáo, tín ngưỡng của nhà nước ta chưa được cởi mở, người đến hương khói ở Đền cũng thưa, có khi phải vụng trộm. Tuy nhiên, chưa khi nào Đền nguội lạnh. Một thời gian rất dài, cụ Hoàng Hữu Ty, người cao gày, cằm hơi lẹm, để râu... nhà cụ ở gần cầu Búng (đầu phố Bờ) trông nom nhang khói cho ngôi đền này. Tiếp theo cụ Ty là ông Hoàng Hữu Tới - con trai cụ Ty (Đại uý bộ đội phục viên) cùng với cụ tiếp tục trông nom Đền. Sau đó do nước dâng, gia đình cụ Ty (đóng vai trò chính) chuyển đền Bờ lên trên đồi Hang Thần. Qua nhiều lần xây dựng và tôn tạo, Đền mới được như hiện nay.
Bên kia sông, đối diện với chợ Bờ, nếu đi từ đầu bến phà Bờ phía Thung Nai, qua Xí nghiệp Đá sỏi, ngược phía sông còn có một ngôi đền nhỏ hơn đền bên chợ Bờ (sau này cụ Quách Công Chảu tên thật là Quách Công Nhật làm chủ nhang). Cũng như cụ Ty bên đền Bờ, khi nước ngập, gia đình cụ Chảu di đền lên phía trên, tôn tạo và ngày càng mở rộng.
Bài thơ khắc đá của vua Lê Lợi
Thác Bờ được tạo bởi một quần thể đá khổng lồ mọc lô xô chắn ngang lòng sông Đà. Phía bờ sông bên kia (phía hang Rết - Động Thác Bờ nay) luồng rộng hơn, có tên gọi luồng Rừng, với những đá chìm, đá nổi rất nguy hiểm cho tàu thuyền qua lại. Phía bên chợ Bờ, núi thác lô xô cao, thấp từ lòng sông ăn vào bờ hay từ bờ vươn ra sông cũng không sai, có luồng chảy nhỏ hơn nên được gọi là luồng Con. Giữ dòng nước xiết và được gọi là luồng Cái. Mùa cạn, khu vực thác Bờ vừa như biển vừa như sông. Các bãi cát, doi cát dài mịn màng, những bãi sỏi sạch phơi mình trong nắng. Xen trong quần thể đá thác giữa lòng sông là những không gian kín đáo mà hùng vĩ bên cạnh dòng nước hiền hoà trôi xuôi. Ấy thế mà đến mùa mưa lũ, nước sông từ thượng nguồn đục ngàu phóng vào rừng đá tung bọt trắng xoá cùng những tiếng gào thét dữ dội vang khắp cả khu Chợ Bờ. Cái hung dữ của lũ thác Bờ là nỗi hoảng sợ của biết bao thế hệ người sông nước qua đây. Nhưng dù hung dữ đến thế nào thì những người đã từng biết thác Bờ xưa đều luyến tiếc vẻ đẹp đến ngẩn ngơ của thác kể cả mùa nước cạn lẫn mùa nước lũ.
Nằm trong quần thể đá thác ấy, những núi đá, mỏm đá phía bờ quây thành núi thấp, có ngọn chỉ như một tảng đá mọc lên từ bờ sông. Ngọn đá cao vài mét, đứng ở mép sân vận động trong quần thể đá của thác Bờ được khắc bài thơ của Vua Lê Lợi mà nhân dân gọi tắt là Bia Lê Lợi. Bên cạnh bia Lê Lợi có một am thờ nhỏ. Trước đây, mỗi khi đá bóng hay chơi thể thao ở sân vận động, chúng tôi thường đứng nghỉ ngay cạnh bia Lê Lợi, thậm chí có khi còn vắt cả quần áo dài lên những mỏn đá thấp bên cạnh bia. Sau này, bài thơ khắc đá của vua Lê Lợi được cắt dời và đưa về thị xã Hoà Bình rồi gần đây lại được đưa lên vùng Chợ Bờ ngày nay.
Xưa và nay
Như vậy cả Đền Bà Chúa Thác Bờ và Văn bia thơ Vua Lê Lợi hiện nay đều nằm trên đỉnh đồi Hang Thần trên hồ Hoà Bình thuộc Chợ Bờ trước đây và xã Vầy Nưa hiện nay là chính xác. (Trước đây là 2 xóm Săng và xóm Hang Thần nằm ở 2 đầu của phố huyện, nay nhập thành xóm Xăng Trệch của xã Vầy Nưa.
Tuy nhiên, nếu từ vị trí ban đầu dịch chuyển lên thì Đền Bà Chúa Thác Bờ phải đứng trước Văn bia Vua Lê Lợi (tính từ phía Tp. Hoà Bình lên) mới chuẩn. Nhưng do điều kiện địa hình nên vị trí như hiện nay (Đền đang có) do gia đình cụ Ty chủ động dịch chuyển (khi chưa có quy hoạch) cũng nên chấp nhận. Nay có quy hoạch xây dựng Công trình đền Bà Chúa Thác Bờ mới và khu Văn bia thơ vua Lê Lợi thì cũng lên xem xét vị trí của mỗi hạng mục (nếu có thể).
Nên có sa bàn địa danh Chợ Bờ (huyện lỵ Đà Bắc trước đây).
Du khách và các thế hệ mai sau sẽ rất ngỡ ngàng khi biết đã có một tỉnh lỵ sầm uất thời Pháp thuộc (tỉnh Bờ) và một huyện lỵ nhộn nhịp chưa xa, nay đã chìm sâu dưới làn nước biếc xanh của hồ Hoà Bình. Và từ đấy, người ta cũng nghĩ về, nhớ về sự hy sinh to lớn của người dân khi đã phải dời quê hương, bản quán nhường chỗ phục vụ Công trình xây dựng Thuỷ điện Hoà Bình. Và dưới làn nước sâu ấy còn trầm tích nhiều giá trị lịch sử, văn hoá đầy bản sắc. Đây là một trong những nội dung rất hấp dẫn đối với điểm du lịch Chợ Bờ hay khu du lịch Hồ Hoà Bình. Sa bàn này sẽ được trưng bày tại các điểm du lịch Hồ Hoà Bình để giới thiệu cho du khách tham quan.
Nơi Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo chuyển dân khỏi vùng hồ có nên là một điểm du lịch?
Công cuộc di dân khỏi vùng lòng hồ phục vụ Công trình Xây dựng Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình trên sông Đà cuối thế kỷ 20 là một cách mạng lớn lao, một hy sinh vô bờ bến của nhân dân các dân tộc tỉnh Hoà Bình ven sông Đà. Chỉ nói riêng huyện Đà Bắc phải chuyển 2365 hộ dân và 800 mồ mả lên trên cốt 120m. Việc chuyển dân, chuyển huyện vô vàn khó khăn, gian khổ, chưa có tiền lệ, chưa ai biết đến đền bù, lại càng không có khu tái định cư như sau này. Ngày 22/3/1982, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp lên làm việc và chỉ đạo công cuộc chuyển dân huyện Đà Bắc khỏi vùng lòng hồ. Ngay sau buổi làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Huyện Đà Bắc phát động chiến dịch tổng lực 40 ngày đêm chuyển khỏi vùng ngập lòng hồ và giành thắng lợi.
Nhà lưu niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo chuyển dân sẽ là nơi lưu lại hình ảnh truyệt đẹp của Bờ xưa, những hình ảnh, những chỉ đạo của Đại tướng và cảnh bà con di dời … Người từng ở vùng Chợ Bờ khi xưa và chứng kiến công cuộc chuyển dân khỏi vùng hồ Hoà Bình sẽ dần về với tiên tổ. Thiết nghĩ việc xây dựng sa bàn và bổ sung những tư liệu, hình ảnh liên quan đến khu vực này không những có giá trị lịch sử mà chính còn là những yếu tố vật chất và văn hoá phục vụ trực tiếp cho phát triển du lịch, một mũi nhọn kinh tế của tỉnh Hòa Bình trước mắt cũng như lâu dài.
Lê Va